Xẩm Hà thành




Xẩm Hà thành

24/9/2011 09:52
Xẩm là nghệ thuật hát khan xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở các chợ, bến đò tại các vùng quê của nhiều tỉnh, thành miền Bắc. Nhưng ở Hà Nội, xẩm trở thành nghệ thuật đường phố và tạo ra những làn điệu khác biệt như xẩm tàu điện... 





Gánh hát xẩm. Ảnh tư liệu

Trong dân gian có truyền thuyết về người khiếm thị đi hát, chuyện rằng thế kỷ XIII, Hoàng tử Trần Quốc Đĩnh bị người em trai đâm mù mắt giữa rừng xanh, đoạt ngọc quý để chiếm ngôi vua. Trong cơn mê sảng, Quốc Đĩnh mơ thấy mình được ca hát với một bày tiên nữ trong tiếng nhạc tưng bừng… Tỉnh dậy, Hoàng tử mới biết là mình được những người dân quê hết lòng chăm sóc. Qua cơn hoạn nạn, nhớ lại giấc mơ và để tỏ lòng báo đáp dân làng, Quốc Đĩnh đã lần mò tự tay chế tác cây đàn bằng một ống tre dài, có cần mềm để nắn tiếng chỉnh âm, lại có dây xe bằng vỏ cây và có que để bật, gõ thành tiếng nhạc. Hoàng tử còn soạn ra lời bài hát, kể lể tâm tình của mình, của đời với mọi người, mọi nhà, tay đàn miệng hát khắp mọi nơi, từ bến sông, bãi chợ, sân đình… Tiếng tăm của chàng ca sĩ mù vang đến tận kinh thành, Thái thượng Hoàng cho vời vào cung, mới hay đó chính là Hoàng tử mất tích năm nào… Từ đấy, Quốc Đĩnh ra sức dạy mọi người đàn hát, nhất là những người khiếm thị, vừa để vui đời, vừa là nghiệp mưu sinh…

Trong cuốn "Việt Nam phong tục", Phan Kế Bính viết về xẩm như sau: Hát xẩm gồm tập hợp những người mù mắt từ 5 hoặc 6 người học nghề đàn hát, cả đàn ông, đàn bà dắt nhau đến nơi thành thị, kiếm chỗ đông người, trải chiếu ngay vệ đường mà hát. Trong hát xẩm, người thì đánh trống, gõ phách, người thì kéo nhị, người gẩy đàn bầu, rồi đồng thanh mà hát, hoặc đi giọng Nam, hoặc đi giọng Bắc, đi theo tiếng nhị, tiếng đàn, nghe cũng vui tai. Đàn bà, trẻ con, người lớn xúm xít vào xem, có người thưởng dăm ba đồng kẽm, có người thưởng vài xu... Trong "Lịch sử Âm nhạc dân gian cổ truyền Việt Nam" do Viện Nghiên cứu âm nhạc xuất bản năm 1996, tác giả Nguyễn Viêm nhận định "Hát xẩm là một nghề sinh nhai của người mù, nghề ấy chính là một kế cứu kẻ tàn tật. Ban đầu hát xẩm còn sơ lược, chỉ vận làn xẩm vào trong vài câu ca dao đơn giản. Nhưng dần dần do yêu cầu của người nghe, hát xẩm đã tiến tới trọn một đoạn dài với nội dung đến vài chục câu, có khi hát cả một câu chuyện kéo dài đến hết cả một buổi". Phần lớn xẩm được "phổ" từ các bài thơ đơn giản nhưng súc tích và giàu tính tự sự. Thực ra những bài hát xẩm không chỉ là hát về tâm trạng của người mù, sáng tạo nghệ thuật của họ là nói về nhân tình thế thái. Họ là những người tạo nên nét đặc trưng cho nghệ thuật hát xẩm. Để an ủi, chia sẻ với những người hát xẩm, dân gian có câu:

Tham giàu lấy chú biện tuần
Tuy rằng bóng bẩy nợ nần chan chan
Thà rằng lấy chú xẩm xoan
Công nợ không có hát tràn cung mây...

Nhưng tại sao lại là hát xẩm? Xẩm đồng nghĩa với từ "sờ" được nói chệch đi để chỉ động tác "sờ soạng" của những người không may mắn bị mù lòa, khiếm thị. "Xẩm tối", từ chỉ thời gian vào cuối buổi chiều, ánh nắng tắt dần, trời sắp tối, vì thế người sáng mắt nếu chậm chạp thường bị mắng "như xẩm sờ... ". Vì thế mà có chữ hát xẩm chăng?

Nhà nghiên cứu Trần Việt Ngữ, người có nhiều năm nghiên cứu nghệ thuật xẩm cho rằng, không cần ăn xin, nhưng phải là người mù mới có thể hát hay. Chính người mù mới tạo nên những âm điệu riêng, đặc sắc vì họ cảm nhận cuộc sống qua đôi tai. Khi hát đúng tâm trạng người dân, họ càng được yêu mến. Từ yêu cầu của khách thưởng thức đòi hỏi người theo nghề phải thể hiện nội dung ngày một mở rộng, câu hát dài hơn, nhân vật nhiều hơn, tích chuyện sâu hơn... nên dù trong tình cảnh mù lòa, ngồi một chỗ vừa hát, vừa đàn, vừa làm điệu bộ, nó cũng gia tăng làn điệu với sắc thái liên quan nhiều đến kết cấu làn điệu của hát chèo. Nhà nghiên cứu Trần Việt Ngữ nhận định: Cũng có thể xẩm ra đời trước chèo, là một trong nhiều nguồn góp phần cấu thành hát chèo. Hoặc xẩm chỉ là bản sao vụng về của hát chèo trong điều kiện và hoàn cảnh hạn chế của những người tật nguyền. Có thể giữa xẩm và chèo có mối liên quan ruột rà bởi chính nghệ nhân xếp hát xẩm và chèo cùng loại trung ca, trong khi tuồng vào loại võ ca, ca trù vào loại văn ca.

Xẩm có rất nhiều bài, nhưng có 7 bài đặc trưng là Xẩm chợ, Chênh bong, Riềm huê, Ba bậc nhịp bằng, Phồn huê, Hát với ai và Xẩm thập ân với những làn điệu Xẩm chợ, Xẩm thập ân, Xẩm tàu điện... Những bài Riềm huê, Ba bậc, Phồn huê… ban đầu chỉ có ở xẩm Hà Nội, sau đó đã "loang" ra để có những điệu xẩm Ninh Bình, Nam Định, Hưng Yên… Song xẩm Tàu điện (na ná giống điệu Đưa đò) không chỉ là làn điệu mà còn được hiểu đó là nơi họ hay kiếm sống. Tàu điện tuyến Bờ Hồ - Thụy Khuê chạy thử chuyến đầu tiên vào ngày 13-9-1900. Năm 1901 khai trương tuyến Bờ Hồ - Ấp Thái Hà. Năm 1906 khai trương tuyến Bờ Hồ - Mơ. Sau đó năm 1915 người ta làm thêm đường vào bến xe Hà Đông. Năm 1929 khai trương tuyến Bờ Hồ - Đại Cồ Việt và vào năm 1943 thì kéo dài tới trước cổng chính Bệnh viện Bạch Mai. Ở tuyến Bờ Hồ - Mơ ban đầu là đường ray đi qua phố Cầu Gỗ, khi chỉnh trang khu vực này chính quyền thành phố cho chuyển ra sát mép hồ. Từ bến chính Bờ Hồ, tàu điện tỏa đi 6 hướng (Hà Đông, Cầu Giấy, Mơ, Vọng, Bưởi và Yên Phụ) và rồi lại quay trở về Bờ Hồ. Do đó xẩm Hà Nội ra đời vào đầu thế kỷ XX, muộn hơn các tỉnh, thành khác được cho là xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX. Tàu điện là phương tiện giao thông công cộng được tầng lớp thị dân ưa chuộng vì giá vé rẻ và rất tiện dụng nên lúc nào cũng đông khách. Dù chỉ tối đa có 3 toa, nhưng liên tục leng keng chuyến đi, chuyến về, khách lên, khách xuống và khách đi tàu bao giờ cũng có dăm ba xu lẻ trong túi, đó là cơ hội tốt để các nhóm hát xẩm kiếm ăn. Họ hát cho khách nghe trước khi tàu chuyển bánh, khi chuyến tàu đó chạy, họ lại chuyển sang chuyến khác, hát cho đến khi nhà tàu nghỉ. Nhưng có khi đang hát thì tàu chạy nên cả nhóm không kịp xuống thế là đành theo và xuống bến gần nhất để lên tàu khác quay lại Bờ Hồ. Song tại sao các nhóm hát xẩm không chọn ga Hàng Cỏ cũng là bến tàu và còn đông đúc người đưa, kẻ đón hơn bến tàu điện? Ga Hàng Cỏ tuy đông nhưng lại không có chuyến đi chuyến về liên tục như tàu điện, hơn nữa khách xuống ga là họ về nhà hay đến ngay đến nơi cần đến. Còn khách chờ tàu thì cũng chỉ có từng đấy, vả lại mua vé xong sợ mất cắp nên họ giấu tiền vào trong người, muốn cho họ lại phải móc hầu bao ra nên nhiều người ngại. Người hát xẩm hiểu điều ấy nên họ không ra bến tàu hỏa là vì thế. Hát xẩm thường đi theo nhóm, có khi là hai, có khi là ba người. Một người kéo nhị, một người hát. Có nhóm người vừa kéo nhị vừa hát còn người kia chìa nón. Những bài họ hát chủ yếu ca ngợi Hà Nội, ít hát các bài về thân phận, nỗi khổ như ở bến đò, chợ quê. Những năm 30 của thế kỷ trước, bài phổ biến của các nhóm là “Vui nhất Hà thành”:

Bắc Kỳ vui nhất Hà thành
Phố phường sầm uất văn minh rợp trời
Thanh tao lịch sự đủ mùi
Cao lâu rạp hát vui chơi đủ đầy
Đâu đâu khắp hết đông tây
Thăng Long thắng địa xưa nay tiếng đồn
Cũ thời băm sáu phố phường
Ngày nay mở rộng đến hàng vài trăm
Người đi xe chạy ầm ầm
Đua chen thương mại bội phần hơn xưa
Nhất vui là cảnh Bờ Hồ
Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Bồ, Hàng Ngang


Theo: Hà Nội mới

Xẩm Hà thành (tiếp)

29/9/2011 10:39
Xẩm là nghệ thuật hát khan xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở các chợ, bến đò tại các vùng quê của nhiều tỉnh, thành miền Bắc. Nhưng ở Hà Nội, xẩm trở thành nghệ thuật đường phố và tạo ra những làn điệu khác biệt như xẩm tàu điện...

Còn tại sao gọi là xẩm chợ Đồng Xuân? Chợ Đồng Xuân là tiếp nối hai chợ nổi tiếng Thăng Long gồm Bạch Mã và Cầu Đông. Chợ Bạch Mã có từ thời Lý (khoảng năm 1035). Lúc đầu gọi là chợ Cửa Đông, đến đời nhà Trần đổi thành Bạch Mã vì ở gần đền Bạch Mã (nay là 76 phố Hàng Buồm). Còn chợ Cầu Đông ở cạnh chùa Cầu Đông (nay là 38B phố Hàng Đường).


Cần có chính sách cụ thể nhằm bảo tồn và lưu giữ hát xẩm như một bộ môn nghệ thuật phố phường.

Chợ Đồng Xuân do người Pháp xây dựng năm 1889, khánh thành vào năm 1890 nhưng nguyên liệu chủ yếu vẫn là tre, nứa, lá. Sau đó được xây kiên cố vào đầu thế kỷ XX. Chợ Đồng Xuân ra đời trước khi có tàu điện và là chợ bán buôn lớn nhất Bắc kỳ, hằng ngày lượng người đổ về Đồng Xuân rất đông nên các nhóm xẩm chia nhau ngồi hát trước bốn cửa. Trong những người hát xẩm, không có quy ước về lãnh địa nhưng nhóm này ngồi chỗ này thì nhóm kia tự biết đi chỗ khác. Giữa họ không bao giờ có ẩu đả tranh giành chỗ, vì họ rất hiểu câu nói "Đồng cảnh tương lân". Khi Hà Nội có tàu điện, trước cửa chính là bến đỗ và tránh tàu nên lúc nào cũng đông nghẹt người. Nhưng như thế cũng chỉ nói lên ở chợ Đồng Xuân có hát xẩm, còn xẩm chợ Đồng Xuân với tư cách là làn điệu có lẽ do bài hát này:
Hà Nội như động tiên sa 
Sáu giờ tắt hết đèn xa đèn gần
Vui nhất có chợ Đồng Xuân
Mùa nào thức ấy xa gần xem mua…
Cổng giữa có chị bán dừa
Hàng cau, hàng quít hàng dưa hàng hồng
Ai ơi đứng lại mà trông
Hàng vóc, hàng nhiễu thong dong rườm rà
Ngoài chợ có chị hàng hoa
Có người đổi bạc đi ra đi vào.

Thập niên thứ 3 thế kỷ trước ở bãi An Dương (nay là phường An Dương) có xóm xẩm. Sở dĩ gọi xóm xẩm vì ở bãi sông Hồng này có chừng 10 nóc nhà của những người hát xẩm. Gọi là nhà nhưng thực ra chỉ là lều, bên trong có cái chõng và vài ba cái niêu đất. Ban ngày, vợ chồng con cái kéo nhau đi hát, chập tối rục rịch kéo nhau về nấu nướng và ngủ ở đây. Xóm tồn tại đến năm 1954. Không chỉ hát tại Bờ Hồ, chợ Đồng Xuân mà họ còn hát tại các chợ khác trong nội thành. Hát xẩm dường như đạt đến đỉnh cao vào đầu những năm 1940 với nhiều tên tuổi tài hoa như Nguyễn Văn Nguyên (Trùm Nguyên), Vũ Đức Sắc (Hà Nội), Thân Đức Chinh (Bắc Giang), Nguyễn Phong Sắc (Hải Dương), Trùm Khoản (Sơn Tây), Chánh Trương Mậu (Ninh Bình - chồng nghệ nhân Hà Thị Cầu), Đào Thị Mận (Hưng Yên), Trần Thị Nhớn (Nam Định), Trần Thị Thìn, Nguyễn Văn Khôi (Hà Đông)... và nhiều nghệ nhân khuyết danh khác.

Sau Cách mạng Tháng Tám, hát xẩm được chính quyền sử dụng trong tuyên truyền phong trào bình dân học vụ ở các huyện ngoại thành và chính thời điểm này các nghệ nhân đã sáng tác bài Tiễu trừ giặc dốt. Năm 1954, Hiệp định Geneva được ký kết, địch mở một chiến dịch dụ dỗ người dân miền Bắc, nhất là bà con công giáo di cư vào Nam. Vận động đồng bào ở lại, chính quyền mới đã mời các nhóm xẩm đến hát ở vùng duyên hải. Vài ba chục người hát ở Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định, Bắc Giang, Hà Nội… đã tham gia cuộc vận động này. Nhà thơ Thanh Tịnh được giao phụ trách một nhóm xẩm gồm 23 anh chị em khiếm thị Hà Nội về hát tại vùng Bùi Chu, Phát Diệm cả tháng trời. Trong số đó có các nghệ nhân vừa hát vừa chơi được nhị, đàn bầu và đàn nguyệt là Vũ Đức Sắc, Nguyễn Văn Nguyên, Nguyễn Văn Tuất, Trùm Thịnh, bà Cấn... Kết thúc công việc, Thanh Tịnh trở về Thủ đô và ông cùng với một số nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật được giao nhiệm vụ tổ chức Đại hội Văn công toàn quốc vào tháng 12-1954. Sự kiện diễn ra ở Nhà hát Nhân dân (nay là Cung Văn hóa Lao động Hữu nghị Việt Xô). Người không có vé kéo đến bên ngoài rất đông xem "người ta" làm gì. Có hai người khiếm thị dìu nhau trình giấy vào cửa, nhân viên soát vé hỏi họ "mù thì làm sao xem được mà vào đây", hai người nói họ là dân hát xẩm vào để nghe. Nhân viên soát vé nghi họ ăn cắp giấy mời đã bắt họ giao cho công an xét hỏi. Việc đến tai Thanh Tịnh, ông vội vã đi khắp các đồn công an tìm họ, sau khi trình bày là ban tổ chức mời họ vì họ là các nghệ nhân hát rất hay nên công an mới thả. Thanh Tịnh ôm hai nghệ nhân và cả ba người cùng khóc. 

Tuy miền Bắc tạm hòa bình, nhưng tại bến tàu điện Bờ Hồ vẫn có khá nhiều người khiếm thị hát xẩm, trong đó có cặp vợ chồng lùn tịt. Còn ông Trùm Nguyên không hát ở bến tàu điện nữa mà chuyển về hát trước cửa đền Ngọc Sơn. Khi Mỹ ném bom Hà Nội năm 1966, công an yêu cầu những người hát xẩm trở về quê và thế là Bờ Hồ chỉ còn vài người được ngành văn hóa cấp phép trong đó có Trùm Nguyên. Trước đó Trùm Nguyên đã dạy hát, dạy đàn cho Nguyễn Văn Gia, một thanh niên bị khiếm thính sau một cơn bạo bệnh. Gia sáng dạ nên Trùm Nguyên cho theo, vừa hát kiếm sống, vừa truyền dạy các làn điệu xẩm. Thập niên 70, ông Gia hát quanh Bờ Hồ, bến tàu điện và không ít lần hai thầy trò đụng nhau, thế là ông không hát Bờ Hồ nữa mà hát trên tàu hỏa. Ông Gia thường hát bài "Hạ liễu":

Giọt nước cánh bèo, giọt nước cánh bèo
Đã từng lưu lạc để nhiều điều vất vả và gian truân.
Ông Giời cao có thấu chăng là tình chăng...

"Hạ liễu" không chỉ nói lên thân phận của người hát xẩm mà nó chính là tâm trạng của ông khi bị gia đình vợ cấm. Năm 1986, ông Gia mới bỏ hẳn xẩm và chỉ hát khi nhớ nó. Khi nhạc sỹ Thao Giang đưa nhóm hát xẩm về hát ở Phú Đô (huyện Từ Liêm), vô tình tìm lại được ông Gia. Và đến nay, ông là số ít các nghệ nhân hát xẩm còn sống.

Khi sân khấu hát xẩm xuất hiện trên khu phố đi bộ Hàng Đào - Đồng Xuân từ đầu tháng 4-2006, bỗng nhiên người ta thấy xẩm vẫn còn duyên và mặn mà lắm. Nhạc sỹ Thao Giang, chủ nhiệm chương trình âm nhạc dân gian "Hà Nội 36 phố phường" và cũng là người có công sưu tầm, khôi phục lại nghệ thuật hát xẩm cho rằng, cách buôn bán ở các cửa hàng có thể thay đổi nhưng hồn của bài hát vẫn ở trong tâm thức mỗi người khi họ nghe xẩm. Để phục vụ cho chương trình này, nhóm "Xẩm Hà Nội" đã sưu tầm được khoảng 20 điệu. Ngoài những điệu được phổ từ thơ của Nguyễn Khuyến, Á Nam Trần Tuấn Khải, Nguyễn Bính, như "Mục hạ vô nhân, Anh khóa, Lỡ bước sang ngang, Trăng sáng vườn chè…" thì còn nhiều điệu khác, trong đó khá đặc sắc là Xẩm tàu điện do nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa trình bày. Nếu ca trù, hát cô đầu là "đặc trưng" của phố Khâm Thiên thì hát xẩm là đặc trưng của chợ Đồng Xuân và phố cổ. Những nghệ sĩ yêu xẩm phải kể đến NSƯT Xuân Hoạch (Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam), Văn Tý (Viện Văn hóa dân gian), Thanh Ngoan (Nhà hát Chèo Việt Nam), Đoàn Thanh Bình (Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh), cô "xẩm trẻ" Mai Tuyết Hoa (Viện Âm nhạc)… cùng các nhạc sỹ Hạnh Nhân, Hồng Thái, Lê Cương, Tự Cường… đã tập hợp về Trung tâm Phát triển nghệ thuật âm nhạc Việt Nam của GS.TS Phạm Văn Khang và nhạc sĩ Thao Giang từ năm 2003. Trong Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, một chương trình xẩm do các nghệ sỹ biểu diễn đã gây ấn tượng mạnh cho du khách. Không chỉ có vậy, xẩm Hà thành còn đi Nhật Bản, Mỹ biểu diễn đã nhận được lời khen ngợi vì sự độc đáo của loại hình âm nhạc đường phố này.

Theo nhạc sĩ Thao Giang, trước năm 1954, những người hát xẩm vẫn chọn ra hai ngày làm giỗ tổ (22-2 hoặc 22-8 âm lịch), nhưng sau này do đất nước có chiến tranh, tục giỗ tổ bị lãng quên. Đến nay, nghệ nhân hát xẩm chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, đặc biệt những người coi hát xẩm như một nghề kiếm sống giờ chỉ còn duy nhất nghệ nhân Hà Thị Cầu (vợ út của ông Chánh Trương Mậu, Trùm xẩm đất Ninh Bình xưa). Lễ giỗ tổ năm 2011 đã thiếu vắng hai cây "đại thụ" là cụ Nguyễn Văn Khôi (đã mất) và cụ Hà Thị Cầu (sức khỏe quá yếu), giờ chỉ còn nghệ nhân Nguyễn Văn Gia. Hiện tại lớp trẻ coi xẩm là thứ nghệ thuật lạc hậu vì thế để bảo tồn và phát triển bộ môn nghệ thuật đường phố này cần phải có chính sách cụ thể, nếu không thì nó chỉ còn ở trong băng đĩa.


Theo: Hà Nội mới
Share on Google Plus

About Unknown

    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét