http://www.hoiquandisan.com/showthread.php?1834-X%E1%BA%A9m-t%C3%A0u-%C4%91i%E1%BB%87nNguồn gốc và sự ra đời của dịch vụ công cộng - Tàu điện
Tàu điện là một nguồn lợi đối với tư bản Pháp. Tại sao lại là tư bản Pháp? Vì Công ty tàu điện là của họ! Nguồn gốc như sau :
Tháng 5 năm 1890, Công ty Điền địa Đông Dương xin phép chính quyền thực dân thành lập một cơ sở khai thác giao thông bằng tàu điện gọi là “Nhà máy xe điện” thuộc vào Công ty này (tên pháp là Usine de la Société des tramways électriques de l’Indochine”). Nhà máy đó đặt ở đầu làng Thụy Khuê nên dân Hà Nội ngày ấy gọi là “Nhà máy tàu điện Thụy Khuê”.
Ngày 13 tháng 9 năm 1900 chạy thử tuyến đường đầu tiên Bờ Hồ - Thụy Khuê. Chợ Đồng Xuân đông hẳn lên và suốt ngày nhộn nhịp. “Nhà tàu” hái ra tiền, khối lợi nhuận. Do vậy sang năm 1901 có thêm đường Bờ Hồ- Thái Hà ấp, khánh thành ngày 10-11-1901, lúc đó đường tàu chạy dọc Hàng Bông sang Cửa Nam, theo đường Sinh Từ (nay là Nguyễn Khuyến) rẽ sang trước mặt Văn Miếu rồi ra đường Hàng Bột (nay là Tôn Đức Thắng).
Hai năm sau mới bỏ đoạn Cửa Nam - Sinh Từ - Văn Miếu mà cho tàu chạy theo phố Hàng Đẫy (nay là Nguyễn Thái Học) tới lưng Văn Miếu thì rẽ sang Hàng Bột.
Năm 1906 làm đường Bờ Hồ - Chợ Mơ, khánh thành ngày 18-12-1906. ít năm sau, kéo dài đường Bờ Hồ - Thụy Khuê lên tận Chợ Bưởi, rồi năm 1915 đường Bờ Hồ - Thái Hà ấp được kéo vào thị xã Hà Đông nhưng phải dừng ở bên này cầu Đơ vì cây cầu này yếu, không chịu được tải trọng của tàu. Do vậy mà năm 1929 mới có một anh tư bản đề xuất làm cầu Đơ mới để đưa tầu điện vào giữa thị xã (nhưng rút cục vẫn không thực hiện được). Trong năm 1929 do có thêm được tuyến Yên Phụ - Ngã tư Đồng Lầm (nay là ngã tư Đại Cồ Việt - Lê Duẩn) để rồi mãi tới tháng 5 năm 1943 mới nối xuống trước cửa nhà thương Vọng (nay là bệnh viện Bạch Mai).
Như vậy là tới năm 1929, từ ga Trung tâm Bờ Hồ (Ga tàu điện Bờ Hồ nay là ngôi nhà “Hàm cá mập”) tỏa ra 6 ngã: lên Yên Phụ, lên chợ Bưởi, sang Cầu Giấy, vào Hà Đông, xuống Chợ Mơ và Vọng, tức cũng là tỏa ra 6 cửa ô nối nông thôn với nội thành.
Tàu điện Hà Nội tồn tại trên chín thập kỷ. Tiếng chuông leng keng của nó tạo nên một nét riêng biệt của thành phố, đi vào tâm thức nhiều người dân Hà Nội, nên đã bật ra thành lời thơ như đã nêu ở trên. Do vậy ai đi xa, khi nhớ về Hà Nội đều phải nhắc đến nó như một cái gì đó rất đặc trưng, không bao giờ phai nhạt trong ký ức.
Thời Pháp thuộc, mỗi đoàn tàu có hai hoặc ba toa, ở toa đầu có chia ra hai hạng vé: hạng nhất, hạng hai. Hạng nhất, kỳ thực chỉ là một khoang nhỏ ở toa đầu, đằng sau chỗ đứng của người lái (mà tên gọi thời đó là Vát-man) có hai hàng ghế bọc đệm vải sơn. Khách ngồi ngang nhìn thẳng, vé đắt gấp đôi hạng hai ở phía trong toa cũng như các toa sau, vốn gồm hai hàng ghế gỗ chạy dài theo thân toa. Hàng hóa thì chất ở dưới ghế, thúng mủng quang gánh móc ở toa cuối.
Đáng nhớ nhất là bất cứ toa nào và đi về đâu, đều có những người quảng cáo bán các thứ thuốc cao đơn hoàn tán: thuốc cam Hàng Bạc, thuốc ho bà lang Trọc, dầu cù là... Còn là những người hát xẩm, vừa kéo nhị vừa hát để xin tiền. Cả bọn lưu manh ăn cắp hoặc cướp giật nhảy tàu như làm xiếc. Người mất của và cả người “sơ -vơ” (người bán vé) chỉ biết nhìn theo.
Thế rồi đến những ngày tháng Chạp năm 1946, những ngày “Hà Nội cháy khói lửa ngập trời”, các toa tàu điện trở thành chướng ngại vật rất có hiệu quả ngăn chặn bước đi của các đoàn xe cơ giới của thực dân gây chiến trên các nẻo đường phố phường.
Sau ngày giải phóng Thủ đô 1954, ta tiếp quản Nhà máy tàu điện. Các đoàn tàu được xóa bỏ cách phân chia thứ hạng và dần dần chữ tàu điện được gọi là xe điện. Xe điện phục vụ nhân dân khá đắc lực trong mấy chục năm ròng, nhất là thời gian sơ tán chống Mỹ.
Sau đến đầu những năm 90 của thế kỷ trước, có vài thông tin là năm 1992 nhưng theo một số nguồn tin chính xác mà tớ tìm hiểu được thì là cuối năm 1991, dường như là do yêu cầu thông thoáng đường phố hoặc văn minh hóa thành phố, các tuyến xe điện lần lượt ngừng hoạt động. Đường ray bóc đi, cùng đầu máy, toa xe hẳn là dồn về kho nhà máy. Mười mấy năm qua, những ai đã từng đi tàu điện vẫn cứ thấy văng vẳng bên tai tiếng leng keng náo nức một thời.
Bên cạnh nét văn hóa về tàu điện thì có những nét văn hóa khác đi kèm, một trong những nét độc đáo đó chính là "Xẩm tàu điện"
Trong ký ức của nhiều người Hà Nội chắc hẳn vẫn chưa thể quên tàu điện - một loại hình phương tiện giao thông của cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Nó đã gắn liền với người dân Hà Thành gần một thể kỷ. Chắc hẳn những người đã từng đi tàu điện ngày xưa vẫn nhớ đã bắt gặp đâu đó những người hát xẩm lang thang trên những chuyến tàu,những nhà ga. Nhưng có lẽ không nhiều người biết rằng, xẩm đã “kết duyên” với tàu điện để sản sinh ra một loại hình nghệ thuật độc đáo, chỉ riêng có ở Hà Nội, Việt Nam. Đó là Xẩm tàu điện.
Sưu tầm
- Blogger Comment
- Facebook Comment
Đăng ký:
Đăng Nhận xét
(
Atom
)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét