BÙI TRỌNG HIỀN : HÁT TRỐNG QUÂN NGƯỜI VIỆT, VIETNAM 2012

       
          Hát trống quân vốn là một hình thức hát đối đáp trai gái của người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ. Thời xưa, chủ nhân khởi thủy của hình thức sinh hoạt nghệ thuật này là đối tượng nam nữ chưa lập gia đình. Trong sinh hoạt đó, họ bộc lộ tài năng thông qua nghệ thuật ứng tác bẻ vần lời ca, nắn làn điệu nhạc. Bằng cách đó, trai gái có điều kiện tìm hiểu người bạn đời tương lai của mình ở một tầng bậc cao hơn. Như thế, sẽ thấy chức năng xã hội của Hát Trống quân thuộc vào vòng sinh hoạt theo chu kỳ đời người, gắn bó mật thiết với lứa tuổi trai gái tuần cập kê.
Nói chung, hát trai gái là thể loại rất phổ biến ở nhiều nền âm nhạc dân tộc. Từ thủa xa xưa, con người đã biết tận dụng thế mạnh của âm nhạc như một động lực quyến rũ tạo điều kiện thuận lợi cho trai gái tìm bạn đời thông qua các sinh hoạt nghệ thuật cộng đồng. Sẽ tìm thấy rất nhiều thể loại hát trai gái trong nền âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam. Nhìn chung, các thể loại thường giống nhau ở hình thức sinh hoạt hát cặp đôi, có nghĩa 2 người nam lần lượt hát đối đáp với 2 người nữ trong cuộc hát giao duyên. Tùy từng truyền thống tộc người, hát trai gái có thể hát đồng giọng hoặc hát 2 bè đối tỉ. Ở đây, sẽ thấy tính hợp lý của việc hát cặp đôi trong sinh hoạt này. Thông thường, khi hẹn hò chúng bạn tụ tập giao duyên, việc ngượng ngùng e thẹn nói chung là tâm lý phổ biến của lứa tuổi thanh thiếu niên. Không còn sự hồn nhiên của cái thủa đồng dao chơi đùa ngắt hoa đuổi bướm, việc hẹn hò chúng bạn giờ đây đã mang một ý nghĩa mới mẻ, chịu sự chi phối đặc biệt của trạng thái tâm sinh lý giới. Bởi vậy, trong sinh hoạt giao duyên, việc có bạn đồng giới hỗ trợ tương tác trở nên có ý nghĩa lớn lao, như một chỗ dựa vững chắc cả về mặt tinh thần cũng như nghệ thuật, giúp cho từng cá thể tự tin hơn trong sinh hoạt cộng đồng nam nữ. Đó là đặc điểm phổ biến ở hát trai gái các tộc người thiểu số. Thế nhưng ở thể loại Hát Trống quân người Việt, điều này lại không xảy ra. Ở đây, cách thức sinh hoạt hoàn toàn dựa trên cơ sở của hình thức đơn ca. Có nghĩa lần lượt từng cá thể sẽ vào cuộc hát đối đáp trước sự chứng kiến của cộng đồng. Điều này được xem như sự khác biệt cơ bản giữa Hát Trống quân và các thể loại hát đối đáp trai gái nói chung. Liệu có phải so với các tộc anh em, trai gái Việt tự tin hơn trong sinh hoạt giao duyên? Hay điều đó đơn giản chỉ là sự lập định kiểu dạng nghệ thuật cho riêng mình? Đó là một câu hỏi thú vị!
Cho đến nay, lịch sử đã ghi nhận một vài kiểu dạng Hát Trống quân ở vùng châu thổ Bắc Bộ và một phần Bắc Trung Bộ. Thường thì chúng ta vẫn nghe thấy những cái tên gắn liền với địa danh như Trống quân Bắc Ninh, Trống quân Hải Dương, Trống quân Hưng Yên, Trống quân Thanh Hóa, Trống quân Xuân Cầu, Trống quân Đức Bác, Trống quân Dạ Trạch… Ở đây, nếu xem xét kỹ lưỡng về mặt chức năng xã hội, có thể chia tách Hát Trống quân người Việt làm 2 loại:
          + Hình thức giao duyên nam nữ - Đây là hình thức phổ biến nhất, có thể thấy ở nhiều vùng với sự tồn tại độc lập trong các sinh hoạt cộng đồng.
          + Nghi thức trong tế lễ tín ngưỡng - Đây chính là trường hợp cá biệt của Trống quân Đức Bác. So với hình thức sinh hoạt Trống quân phổ biến, Hát Trống quân ở xã Đức Bác (Lập Thạch, Vĩnh Phúc) là một hiện tượng đặc biệt. Trên thực tế, hình thức hát đối đáp trai gái này nằm trong một quy trình diễn xướng lớn hơn thuộc không gian văn hóa nghệ thuật Hát xoan. Đó là lễ hội Khai xuân cầu đinh -một lễ hội của người dân địa phương cầu mong mưa thuận gió hòa, vạn vật sinh sôi nảy nở. Trong hình thức Hát Trống quân Đức Bác, các chàng trai Đức Bác bao giờ cũng hát đối đáp với các cô đào đến từ Phù Đức (Kim Đức, Phú Thọ). Đây được coi như phong tục truyền đời, không có ngoại lệ[1]. Bắt đầu ngày hội, đám trai làng Đức Bác sẽ ra bờ sông đón các cô đào Xoan Phù Đức. Khi các đào Xoan vừa xuống thuyền là các chàng trai xúm lấy vây quanh đeo vào cổ các đào những chiếc trống nhỏ được chuẩn bị từ trước. Rồi cứ thế, họ vừa đi vừa đánh trống, cùng nhau hát đối đáp từ bến sông về tới đình làng. Điệu hát có tên gọi Trống quân Đức Bác là bởi vậy.
          Cho đến nay vẫn phổ biến một số giả thiết về nguồn gốc của Hát Trống quân nói chung.
-Giả thiết thứ nhất: Hát Trống quân tục truyền rằng có từ đời Trần (thế kỷ XIII) vào thời kỳ lịch sử chống quân xâm lược nhà Nguyên. Những lúc nghỉ ngơi, binh sĩ Đại Việt đã nghĩ ra cách giải trí là ngồi thành hai hàng đối diện nhau gõ vào tang trống mà hát, cứ một bên "hát xướng" vừa dứt thì bên kia lại "hát đáp". Sau khi đã đánh đuổi quân xâm lược, điệu hát được phổ biến trong dân gian miền Bắc...[2].
          -Giả thiết thứ hai: Hát Trống quân xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII. Khi vua Quang Trung tiến quân ra Bắc đánh đuổi quân xâm lược nhà Thanh, để động viên binh sĩ và tạo sự thư giãn trong các đợt hành quân, ông đã bày trò cho binh sĩ chia thành 2 tốp, một bên cải trang thành nữ để hát đối đáp với bên nam kèm theo trống đánh điểm nhịp lúc nghỉ cũng như lúc đi đường. Về sau, lối hát này đã phổ biến ở hầu khắp các vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ[3].
          Như vậy, dù gắn với giả thiết nào, nguồn gốc của Hát Trống quân bao giờ cũng liên quan mật thiết tới binh sĩ quân đội -tức gắn liền với những sự kiện chống ngoại xâm của dân tộc. Cũng có thể nói, đó là một nguồn gốc mang đậm dấu ấn lịch sử Đại Việt.
          Về mặt thời gian diễn xướng, riêng Trống quân Đức Bác (Trống quân nghi lễ) do gắn liền với lễ hội Khai xuân cầu đinh vào dịp từ mồng 1 đến mồng 4 tháng 2 âm lịch nên thường vài ba năm mới tổ chức một lần[4]. Trong khi đó, các hình thức sinh hoạt Trống quân giao duyên lại diễn ra thường xuyên vào nhiều dịp trong năm. Có thể chia các hình thức sinh hoạt Hát Trống quân giao duyên nam nữ thành 2 loại.
          1. Loại có tổ chức: bao gồm 2 hình thức sinh hoạt mang nặng tính chất thi thố đối đáp -trong dân gian quen gọi là những đám hát. Những đám Hát Trống quân thường chỉ được tổ chức vào buổi tối, rất hiếm khi tổ chức ban ngày.
          +Hát lúc nông nhàn: Xuân thu nhị kỳ, vào những dịp nhàn rỗi sau vụ mùa thu hoạch, bà con nông dân thường tổ chức Hát Trống quân ở trong làng. Các đám hát có thể chọn những địa điểm rộng rãi, thuận lợi như bãi đất trống dưới bóng cây đa đầu làng, ở ngã ba đường làng, bên điếm canh đê hay sân đình, sân chùa... Những đêm trăng sáng, họ có thể tổ chức nhiều đám hát cùng lúc. Các làng lân cận trong vùng đều có thể đến tham gia. Đây là một hình thức sinh hoạt mang tính thời vụ bởi nó phụ thuộc vào chu kỳ cây trồng trong đời sống xã hội nông nghiệp. Trải theo thời gian, lịch sử đã ghi nhận dịp thường thấy nhất của Hát Trống quân chính là những đêm rằm Trung Thu. Ngoài ra, tùy từng vùng, người ta cũng có thể tổ chức đám Hát Trống quân vào tiết Xuân trong các dịp hội làng. Ở đây, có ý kiến cho rằng Hát Trống quân thường gắn bó với đêm rằm Trung Thu bởi những quan niệm tín ngưỡng nông nghiệp[5]. Về mặt khách quan, cũng cần thấy rằng mùa Thu trăng thanh gió mát, tiết trời thuận lợi hơn hẳn mùa xuân với những cơn mưa phùn ẩm ướt. Đó cũng là điều kiện thời tiết thuận lợi để người ta có thể lập những đám hát.
          +Hát trong đám khao: Đây là hình thức sinh hoạt văn hóa nghệ thuật mang tính gia đình. Dưới thời phong kiến, ở làng quê Việt Nam, khi có người được phong chức, phong sắc, lên lão... thường tổ chức đám khao. Đó là dịp để người ta tổ chức vui chơi, sinh hoạt văn nghệ. Và, Hát Trống quân là một trong những sự lựa chọn ở vùng quê có nhiều nghệ nhân tài ba. Người ta tổ chức đám hát ở ngay tại sân nhà chủ. Những người hát hay, ứng đối giỏi trong vùng được mời đến hát, gia chủ và dân làng sở tại cũng có thể tham gia. Tuy nhiên, đây thường được coi là sân chơi của những người được xếp vào hàng nghệ nhân nên giới bình dân ít khi dám tham dự. Bởi vậy, có thể coi hát trong đám khao là lối hát trình diễn mang tính nghệ thuật cao nhất của sinh hoạt Hát Trống quân. Trong hình thức sinh hoạt này, gia chủ bao giờ cũng treo thưởng cho những người ứng đối tài giỏi nhất, hát hay nhất.
          2. Loại tự do: là những sinh hoạt Hát Trống quân ở mọi lúc, mọi nơi, thuộc về những cá nhân đơn lẻ. Người ta có thể hát khi đi cấy, đi làm cỏ, lúc nghỉ bên vệ đường... Có thể vừa làm vừa hát, hình thức sinh hoạt này thường không mang nặng tính thi thố như các sinh hoạt có tổ chức mà phần nhiều để giải trí đơn thuần. Đây thực sự là một "lớp học ngoài giờ" lý tưởng cho đám trẻ có điều kiện học hỏi và rèn luyện theo lớp người đi trước.
Về số lượng người hát, các cụ kể rằng một đám Hát Trống quân có tổ chức thường chỉ có khoảng 4 hay 5 người tham gia mỗi nhóm bên nam và bên nữ. Tất nhiên họ phải là những người có trình độ nghệ thuật nhất định. Hát hay nhưng nếu ứng đối lời thơ không nhanh nhạy hoặc ngược lại, ứng đối giỏi nhưng nếu không có “chất giọng” thì cuộc Hát Trống quân sẽ bất thành.
          Mở đầu, một bên cử người đại diện vào hát trước để chèo kéo, khích động phe bên kia vào cuộc. Khi cặp nam nữ đối đáp so tài, tất có kẻ thắng, người thua. Và, bên nào thua sẽ thay người khác vào hát tiếp. Như vậy, số lượng người tham gia mỗi phe không nhất thiết phải bằng nhau. Bởi nếu một thành viên phe bên này đủ tài ứng đối thì rất có thể sẽ lần lượt "đánh bại" tất cả thành viên phe bên kia và ngược lại. Mặt khác, nếu có một cặp hát ứng đối ngang tài, ngang sức thì họ sẽ chiếm sân chơi lâu hơn mọi người, thậm chí có thể "bao sân" cả một cuộc hát đến khi nào mệt thì thôi. Hiện tượng này không phải là hiếm, đặc biệt trong các đám hát khao bởi như đã nói, đây là sân chơi của những nghệ nhân tài danh trong một vùng. Ở nhiều nơi, cũng phổ biến vai trò "cố vấn" của một đôi người có trình độ ứng đối văn thơ. Có những đám hát, mỗi nhóm mời hẳn một cụ đồ Nho có uy tín giúp đỡ, gà bài ứng đối tại chỗ. Họ có nhiệm vụ mách nước giúp các chàng trai hay cô gái thoát khỏi thế bí khi đối phương gia bài đối hóc hiểm. Điều đó càng khiến cho sức hấp dẫn của đám Hát Trống quân tăng lên bội phần. Ở nhiều vùng, khi các đám Hát Trống quân phát triển tới quy mô lớn, mang nặng tính chất thi thố lấy giải thì làng thường phải lập ra một ban giảm khảo để giám định cuộc chơi. Giải thưởng ở đây có thể là đôi ba vuông lụa hay mấy gói chè thuốc... Nó mang tính khích lệ hơn là giá trị vật chất. Bởi danh dự nghệ thuật là niềm tự hào trong mỗi cộng đồng.
          Như vậy, có thể thấy Hát Trống quân giao duyên đã có bước chuyển tiếp quan trọng. Từ một sinh hoạt văn nghệ dân gian mang tính thực hành xã hội là giao duyên nam nữ, nó đã phát triển vượt tầm để trở thành một thú chơi nghệ thuật của người dân lao động. Ở giai đoạn sau, theo thời gian, tính thực hành xã hội ngày càng mờ nhạt. Do những đặc tính nghệ thuật đã tiến tới cấp độ cao nên Hát Trống quân đòi hỏi những người tham gia phải có một trình độ nhất định. Ngoài giọng hát hay đủ độ chín muồi, họ còn phải có khả năng chuyển làn bẻ điệu bên cạnh một vốn sống nhất định đủ để đảm bảo năng lực ứng đối thơ ca. Để đạt được những tiêu chuẩn này, một người trung bình ắt phải "trải đời" tới độ trên dưới 40 tuổi. Bởi vậy, trong các đám Hát Trống quân có tổ chức, người chơi được xác định là những tài năng đại diện cho cộng đồng. Họ được coi như một nghệ sĩ dân gian thực thụ. Khi đó, các nam thanh nữ tú -chủ nhân khởi thủy của thể loại này sẽ chủ yếu đứng "chầu rìa", tham dự với mục đích thưởng thức và học hỏi là chủ yếu. Có chăng, họ chỉ dám hát ở ngoài đồng hay hát chơi trong phạm vi hẹp mà thôi. Khi đó, những đám Hát Trống quân chỉ còn là dịp, là cái cớ cho nam nữ thanh niên tụ tập vui chơi tìm hiểu nhau. Tức là sự giao duyên khi đó đã nằm ngoài chứ không ẩn chứa bên trong cuộc chơi. Do đó, việc nam nữ thực sự tìm bạn đời thông qua câu Hát Trống quân có lẽ chỉ thấy ở hình thức sinh hoạt tự do.
          Về mặt nghệ thuật, các hình thức sinh hoạt Trống quân giao duyên có tổ chức bao giờ cũng đi đôi với việc sử dụng một nhạc cụ độc đáo -đó là cái trống quân.
          Khi làng lập đám Hát Trống quân, việc đầu tiên mà người ta phải làm là dựng trống (còn gọi là "bắc trống"). Trước hết, người ta phải chuẩn bị một sợi dây mây tươi dài khoảng 4,5 -5 m, hai chiếc cọc tre hoặc gỗ dài chừng 35 -40 cm, một thùng gỗ (hoặc sắt tây) có đường kính từ 35 -45 cm, cao khoảng 45 -50 cm và một cái nạng gỗ (làm bằng chạc cây) cao chừng 12 -15 cm.
          Khi bắc trống quân, người ta ngâm sợi dây mây xuống nước sao cho nó đạt tới độ mềm dẻo cần thiết rồi đập dập 2 đầu dây và buộc chặt vào 2 cái cọc. Dưới đây là cách buộc dây phổ biến.
Tiếp theo, người ta căng sợi dây mây ra và đóng lút 2 đầu cọc xuống nền đất rắn. Họ phải tính toán làm sao để khi kéo sợi dây mây gác lên nạng gỗ đặt trên cái thùng, nó phải đạt một độ căng tối đa để đảm bảo tiếng vang của trống quân.
          Ở chính giữa sợi dây mây, người ta lật úp cái thùng gỗ xuống đất, miệng thùng được chêm cách đất để tạo khe thoát âm. Sau đó đặt cái nạng gỗ lên chính giữa đáy thùng và căng sợi dây mây lên đó. Cái thùng có vai trò như bầu cộng hưởng còn chiếc nạng là "ngựa đàn".
          Khi diễn xướng, 2 người hát bên nam và bên nữ bắc nghế ngồi chéo nhau quay mặt vào chỗ chiếc thùng gỗ. Đến phiên ai hát thì người đó dùng dùi gõ vào đoạn dây mây ở gần nạng gỗ, trống quân sẽ phát ra những âm thanh không xác định cao độ, có sắc thái hơi giống với tiếng trống da loại nhỡ, nhưng nghe nhỏ và đanh hơn.
đoạn gõ dùi
          Tùy vào truyền thống từng vùng mà trống quân có những sự thay đổi nhất định về cấu tạo. Chẳng hạn có thể không cần dùng nạng chống mà căng thẳng dây mây lên mặt thùng.
          Có vùng lại dùng cái chum sành thay cho chiếc thùng gỗ.
          Có nơi, người ta đào hẳn một hố sâu làm thùng cộng hưởng. Trên bề mặt hố, người ta đặt ván gỗ hay một chiếc mâm đồng và ngựa đàn lúc này làm bằng một que chống khá dài.

Cũng có khi trong hố, người ta đặt chiếc chum sành và kê ván gỗ lên miệng chum.
          Ngoài ra, từ đầu thế kỷ XX, người ta thường dùng dây thép hay dây đồng thay cho dây mây. Cá biệt, có nơi thay cho dây đàn, người ta còn dùng một thanh tre dài chừng 4 -5m, gác 2 đầu lên đầu 2 chạc cây. Giữa thanh tre đó, người ta buộc lạt tre (hoặc dây mây) vít thanh tre xuống miếng ván mỏng được cố định trên miệng hố.
          Nói chung, đây là những dạng cấu tạo trống quân phổ biến nhất đã được nhiều nhà nghiên cứu ghi nhận[6]. Có thể thấy, cái trống quân do được tạo dựng trên mặt đất nên nó cũng có tên nôm là trống đất. Cũng xin nhắc lại rằng nhạc cụ này chỉ dùng trong hình thức Trống quân giao duyên nam nữ. Còn riêng trong hình thức Trống quân nghi thức tín ngưỡng (Trống quân Đức Bác), nhạc cụ ở đây lại đơn giản chỉ là những chiếc trống da bò loại nhỏ. Người ta chơi trống bằng 2 dùi và không gọi đó là trống quân. Điều đặc biệt ở Trống quân Đức Bác là chỉ có bên nam đánh trống và chiếc trống da luôn được đeo vào cổ bên nữ[7]. Vì thế đôi nam nữ luôn phải quấn quít bên nhau trong quá trình diễn xướng từ bến sông về đình làng.
          Theo cách phân loại ngày nay, có thể xếp trống quân vào loại nhạc cụ họ dây, chi dùi gõ. Còn người xưa có lẽ căn cứ vào phương pháp kích âm dùi gõ mà coi nó như một loại trống. Ở đây, điều thú vị là tên gọi của thể loại cũng đồng thời là tên gọi của nhạc cụ mà thể loại gắn bó. Hát Trống quân giao duyên gắn liền với cái trống quân. Bởi vậy, có thể xác định trống quân là một nhạc cụ mang tính chuyên dùng.
          Ngoài chức năng giữ nhịp và tạo âm nền tiết tấu đệm cho giọng hát, trống quân còn được dùng để đánh dấu sự phân ngắt giữa các câu thơ, giữa các trổ hát. Bên cạnh đó, nó còn khỏa lấp chỗ trống khi người hát chưa kịp nghĩ ra lời ca tiếp theo. Dưới đây là một số mô hình tiết tấu phổ biến của trống quân.
 
          Trong những lời ca của Hát Trống quân xưa, có câu:
                                Trống quân anh đánh nhịp ba
                             Khi vào nhịp bảy khi ra nhịp mười
          Ở đây, cũng giống như khái niệm nhịp một, các khái niệm nhịp ba, nhịp bảy... được dùng đơn thuần để chỉ số lượng âm thanh trong mỗi mô hình tiết tấu trống quân.
          Đây là quan niệm phổ biến trong nhiều thể loại âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Nó khác hẳn với quan niệm về nhịp trong nhạc Tây phương.
Về mặt cấu trúc, mỗi lượt hát đối (hay đáp) được coi như một trổ. Mỗi trổ hát bao gồm ít nhất 2 cặp thơ lục bát. Những trổ hát dài nhất thường chỉ bao chứa tới 12 đến 14 cặp thơ là cùng. Điều này là phù hợp với tâm sinh lý của người trình diễn và tính chất của thể loại. Bởi nếu một trổ hát quá dài thì "bạn diễn" khó có thể nắm bắt kịp mọi chi tiết nội dung mà ra bài ứng đối, và đám hát sẽ bị nghiêng về tính chất độc diễn.
          Đối với các hình thức diễn xướng có tổ chức, người ta bao giờ cũng chia một đám Hát Trống quân thành nhiều chặng khác nhau với những chủ đề nội dung đặc trưng. Tuy mỗi vùng một kiểu nhưng nhìn chung, các quy trình diễn xướng Trống quân đại thể thường biểu hiện cấu trúc kiểu mở đầu - tiếp diễn - kết thúc với tính lề luật khá cao. Có thể thấy ở trình tự: hát lập đám (hát chào), hát vận, hát giao hẹn, hát mời nước, hát mời trầu, hát huê tình, hát họa, hát đố, hát thách cưới, hát kể truyện.., kết thúc bằng hát chia tay.
          Mở đầu, xen giữa hay kết thúc các trổ, các phần, người ta thường sử dụng các làn điệu dân ca khác của người Việt như hát Ví, Cò lả, Sa mạc... làm phần kết nối. Chúng có tác dụng như những đoạn chen khiến cho tính nghệ thuật của đám hát thêm phần phong phú, làm cuộc chơi thêm hấp dẫn. Mặt khác, đặc điểm đó cũng đòi hỏi người trình diễn buộc phải có khả năng bẻ làn, nắn điệu. Đó là một năng lực nghệ thuật phải được rèn luyện theo thời gian.
          Về mặt lời ca, các làn điệu Hát Trống quân nói chung chủ yếu dùng thể thơ lục bát, lục bát biến thể hay song thất lục bát. Nói chung, các vần thơ chủ yếu được phổ theo kiểu xuôi chiều -tức các câu thơ khi chuyển thành lời ca được bảo lưu trật tự các từ trong câu. Riêng trường hợp Trống quân Dạ Trạch có đặc điểm ngoại lệ. Ở đây, câu lục mở đầu và câu bát kết thúc mỗi trổ hát có hiện tượng thay đổi cấu trúc lời thơ. Có thể coi đó như một nét độc đáo của riêng thể loại Trống quân nơi đây.
          Cụ thể, câu lục mở đầu mỗi trổ bao giờ cũng bắt đầu bằng cụm từ thứ 3 - 4 - 5 - 6, sau đó mới xuất hiện cả câu đầy đủ. Ví dụ:
          Lời thơ:
          Tháng bảy anh cắm nhành đa
          Khi hát thành:
          Anh cắm nhành đa, tháng bảy anh cắm nhành đa
          Như vậy, sơ đồ cấu trúc lời ca của câu lục sẽ là:
          3-4-5-6/ 1-2-3-4-5-6.
          Hiện tượng này được coi như một sự nhấn mạnh vào cụm từ 3-4-5-6. Chúng tôi tạm gọi là thủ pháp nhấn từ. Đây được coi như một thủ pháp nghệ thuật đặc biệt. Thủ pháp này đôi khi cũng gặp ở Hát Trống quân phổ biến. Tuy nhiên, nó không trở thành một hiện tượng mang tính quy luật như ở Trống quân Dạ Trạch. Ngoài ra, chúng ta cũng còn gặp thủ pháp nhấn từ ở nhiều thể loại nhạc cổ truyền Bắc Bộ khác nữa.
          Đối với câu bát kết thúc mỗi trổ Hát Trống quân Dạ Trạch, hiện tượng nhấn từ lại xảy ra đối với từ thứ 8. Ví dụ:
          Lời thơ:
          Hay là nàng bỏ chốn này nàng đi
          Khi hát thành:
          Hay là nàng bỏ chốn này, đi nàng đi
          Như thế, cấu trúc sơ đồ lời ca câu bát sẽ là:
          1-2-3-4-5-6/ 8-7-8.
          Thủ pháp nhấn từ nêu trên được coi như quy luật cấu trúc lời ca của mỗi trổ Hát Trống quân Dạ Trạch. Trong đó, các nghệ nhân nơi đây thường gọi các câu bát kết thúc mỗi trổ hát là câu đổ. Đây cũng chính là dấu hiệu báo kết trổ để bạn hát đối đáp chuẩn bị nhập cuộc, tiếp nối. Đối với thể loại trống quân phổ biến, dấu hiệu kết trổ chỉ đơn giản là sự ngưng nghỉ của người hát với những chùm tiết tấu của dùi gõ đơn thuần. Riêng trong Trống quân Đức Bác, dấu hiệu ngắt trổ lại là câu hát cố định "Kìa hỡi a trống quân"[8].
          Về nội dung lời ca, do bản chất của Hát Trống quân là hình thức hát đối đáp trai gái nên không những thể loại Trống quân giao duyên mà ngay cả trong thể loại Trống quân nghi thức tín ngưỡng (Đức Bác), tình yêu nam nữ vẫn là chủ đề nổi bật nhất. Nó biểu hiện ngay từ cách xưng hô: anh -em, chàng -nàng, ta -mình giữa các cặp hát. Thế nhưng cần phải thấy rằng chủ đề tình yêu nam nữ ở Hát Trống quân nói chung chỉ được xác định như một chất xúc tác nghệ thuật. Bên nam và bên nữ đối đáp thi thố đơn thuần (hoặc phục vụ tín ngưỡng) chứ không hề có tình ý gì khác.
          Bên cạnh tình yêu, nội dung lời ca cũng đề cập đến những chủ đề ca ngợi thiên nhiên, đất nước cũng như cuộc sống lao động của con người. Với thể loại Hát Trống quân giao duyên, người ta còn đề cập đến các điển tích văn học hay tích cũ như truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Nhị Độ Mai, Tần Cung Oán... Ở đây, không thấy xuất hiện những chủ đề mang tính thời sự đả kích, châm biếm xã hội... kiểu Hát Xẩm. Đặc biệt, với bản chất thể loại đối đáp, các chủ đề nội dung nhất thiết phải được sắp đặt thành hai phần đối -đáp cân xứng, từ số lượng câu thơ mỗi trổ cũng như nội dung tương ứng.
          Về kỹ thuật thanh nhạc, Hát Trống quân thường được trình diễn bằng một lối hát dân dã tự nhiên. Ở đây không thấy phổ biến những kỹ thuật thanh nhạc đặc trưng của cổ nhạc Việt như rung giọng, nẩy hạt. Đôi khi người ta còn có cách nhả chữ dân dã gần với giọng nói. Điều đó là hợp lý với một loại hình nghệ thuật dân gian có tính phổ quát cao.
          Về mặt giai điệu, cũng như nhiều thể loại nhạc cổ truyền khác, giai điệu Hát Trống quân được cơ bản vận hành trên hàng âm ngũ cung với mối tương quan kiểu thang âm Bắc của người Việt. Điều đặc biệt ở đây là sự tồn tại của 3 loại làn điệu Trống quân khác nhau hoàn toàn về giai điệu. Đó là:
+Làn điệu Trống quân phổ biến.
          +Làn điệu Trống quân Dạ Trạch.
          +Làn điệu Trống quân Đức Bác.
          Trong 3 loại làn điệu Trống quân nói trên, 2 làn điệu Dạ Trạch và Đức Bác thuộc vào loại giai điệu khu biệt trong mỗi địa danh. Còn làn điệu Trống quân phổ biến thì thấy có ở hầu khắp các vùng miền Bắc. Sự khác biệt giữa các làn điệu này là rất rõ. Chẳng hạn, với cùng một lời thơ, làn điệu Trống quân Dạ trạch và Trống quân phổ biến sẽ hát khác nhau như sau:
Trống quân Dạ Trạch:
 

Trống quân phổ biến:
          Cũng như những thể loại dân ca thuộc kiểu dạng làn điệu, Hát Trống quân có thể sử dụng bất cứ câu thơ lục bát nào làm lời ca. Nghệ nhân thường gọi đó là thủ pháp vận thơ. Điều đó có nghĩa làn điệu Trống quân có cấu trúc giai điệu mở với nhiều sơ đồ âm điệu khác nhau vận hành ứng với những sơ đồ thanh điệu câu thơ khác nhau. Vì thế, có thể xếp Hát Trống quân vào loại những làn điệu hát- ngâm thơ lục bát tiêu biểu của người Việt. Trong đó, mỗi làn điệu là một tập hợp những sơ đồ âm điệu khác nhau biến hóa theo từng cấu trúc lời thơ. Nó được xem như đối lập với cấu trúc ca khúc dân gian, vốn có đường tuyến giai điệu tương đối định hình, kiểu hệ thống các bài lý hay dân ca Quan họ. Như thế, Hát Trống quân thuộc vào dạng làn điệu có cấp độ dị bản lớn.
          Trong các làn điệu Trống quân, làn điệu Trống quân phổ biến còn được các nghệ nhân Xẩm và Chèo du nhập vào kho tàng bài bản của họ với sự “nắn điệu”, biến báo ít nhiều. Khi đó, giai điệu Trống quân được đệm bằng cơ cấu dàn nhạc chuyên nghiệp. Các nghệ nhân Xẩm thường dùng Trống quân như một làn điệu hát kể chuyện. Có thể coi đó như một bước chuyển tiếp quan trọng của Hát Trống quân từ một điệu hát đối đáp dân dã trở thành một làn điệu nhạc dân gian chuyên nghiệp./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trần Việt Ngữ, Hát trống quân, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội 2002.
2.Bùi Trọng Hiền, Hát trống quân ở Dạ Trạch, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 10/1999.
3.Thông báo khoa học, Viện Âm nhạc, số 9, tháng 5 - 8/2003.
Đã đăng trênTạp chí VHNT số 332, tháng 2-2012 

[1] Thông báo khoa học, Viện Âm nhạc, số 9, tháng 5-8/2003.
[2] Xem Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, NXB Khoa học xã hội Hà Nội, 1978, tr.581.
[3] Xem Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, NXB Mai Lĩnh, Hà Nội - 1941.
[4] Thông báo khoa học, Viện Âm nhạc, số 9, tháng 5-8/2003.                           
[5] Trần Việt Ngữ, Hát trống quân, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội 2002, tr 31.
[6] Xin xem Trần Việt Ngữ, Hát trống quân, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội 2002.
[7] Thông báo khoa học, Viện Âm nhạc, số 9, tháng 5-8/2003, tr 21.
[8] Thông báo khoa học, Viện Âm nhạc, số 9, tháng 5-8/2003, tr 21.

Share on Google Plus

About Unknown

    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét